Ngày 4/5/2012, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT đã ban hành Chỉ thị số 1311/CT-BNN-TT về việc đẩy mạnh ứng dụng thực hành nông nghiệp tốt (GAP) trong SX trồng trọt. Dưới đây là những nội dung cơ bản của Chỉ thị quan trọng này.
1. Kết quả bước đầu
Đến năm 2011 tổng diện tích cây trồng SX theo VietGAP hoặc GAP khác đạt trên 75.000 ha. Cụ thể khoảng 15.000 ha rau, quả, chè, lúa gạo (VietGAP hoặc theo hướng VietGAP). Điển hình là trên 5.000 ha trong tổng số 1.5000 ha thanh long của Bình Thuận được chứng nhận VietGAP, trong đó hơn 500 ha được DN Mỹ kiểm tra thực địa để thu mua và hơn 3.500 ha vải thiều của Bắc Giang SX theo hướng VietGAP được thương lái chọn mua với giá cao hơn.
Đặc biệt, trên 60.000 ha cà phê, ca cao được chứng nhận 4C, UTZ Certified và hơn 2.000 ha chè được chứng nhận Grain Forest do các Cty thu mua, chế biến, xuất khẩu hỗ trợ chứng nhận và mua với giá cao hơn sản phẩm không được chứng nhận. Ngoài ra, rau, quả có gần 500 ha được chứng nhận GlobalGAP và hàng trăm héc ta được 1 số Cty bán lẻ hợp đồng với nông dân SX theo GAP (MetroGAP...), đồng thời bao tiêu sản phẩm.
Bên cạnh đó còn có các mô hình DN, cộng đồng nông dân SX rau, quả, chè, lúa gạo theo tiêu chuẩn hữu cơ bước đầu được thị trường chấp nhận. Gần đây, áp dụng VietGAP trên các mô hình cánh đồng mẫu lớn ở ĐBSCL đang mở ra triển vọng xây dựng thương hiệu gạo VN không chỉ chất lượng, còn bảo vệ môi trường, sức khoẻ ngời lao động, nâng cao khả cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
SX nông nghiệp tốt là hướng đi tất yếu của ngành trồng trọt
2. Khó khăn, hạn chế
Đi lên từ một nền SX nhỏ lẻ, nên áp dụng GAP và đảm bảo an toàn thực phẩm (ATTP) là một quá trình khó khăn, lâu dài. Kết quả bước đầu nêu trên là đáng ghi nhận. Tuy nhiên, yếu tố hạn chế lớn nhất hiện nay đối với các mô hình áp dụng GAP là thị trường tiêu thụ. Do thị trường xuất khẩu không ổn định, trong khi thị trường trong nước chưa minh bạch giữa sản phẩm an toàn được chứng nhận và sản phẩm không rõ nguồn gốc, dẫn đến một số cơ sở đạt chứng nhận VietGAP hoặc GlobalGAP song bán sản phẩm an toàn với giá như sản phẩm bình thường. Vì thế một số mô hình không tiếp tục duy trì chứng nhận, nông dân quay lại với cách SX truyền thống như một số báo chí đưa tin gần đây.
Thực tế là có một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cáo hơn để mua được sản phẩm an toàn, nhất là rau, quả, chè; đồng thời một bộ phận nông dân đã vượt lên cách làm cũ đang SX ra sản phẩm an toàn, có nguồn gốc; nhưng trong nhiều trường hợp họ lại chưa gặp nhau, đó là một nghịch lý cần tháo gỡ để việc áp dụng GAP trong SX phát triển bền vững.
3. Định hướng áp dụng GAP và SX sản phẩm an toàn
Đối với các nước phát triển, áp dụng GAP trở thành thói quen của nông dân, phổ biến trong SX. Đối với nước ta, Luật ATTP có hiệu lực từ tháng 7/2011 đã quy định cần thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chức thực hiện lộ trình bắt buộc áp dụng GAP trong quá trình SX.
Trên cơ sở đó, để phù hợp điều kiện nước ta, cũng như từng địa phương và yêu cầu của thị trường, Chỉ thị đã nêu rõ định hướng áp dụng GAP với các cấp độ như sau:
a) Mức độ tối thiểu bắt buộc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật (QCKT) về điều kiện bảo đảm ATTP đối với cơ sở SX và đối với sản phẩm trong quá trình SX. QCKT này được xây dựng trên cơ sở các chỉ tiêu cơ bản của VietGAP nhằm bảo đảm ATTP và truy xuất nguồn gốc (SX an toàn theo hướng VietGAP). Người SX có thể tự đánh giá hoặc thuê tổ chức chứng nhận để có căn cứ công bố sản phẩm an toàn nhằm hướng tới thị trường trong nước là chính theo Luật ATTP.
b) Mức mức độ cao khuyến khích áp dụng đầy đủ các chỉ tiêu của GAP (VietGAP, GlobalGAP, GlobalGAP, 4C, UTZ Certified, Rain Forest…) hoặc tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ và thuê tổ chức chứng nhận theo yêu cầu của hợp đồng tiêu thụ trong nước hoặc quốc tế.
Như vậy sản phẩm an toàn sẽ có 3 cấp độ: Sản phẩm phù hợp QCKT, sản phẩm phù hợp GAP, sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ và có sự khác nhau về giá cả để người tiêu dùng lựa chọn. |
Thay bằng việc phải phân tích từng lô sản phẩm về hoá chất, thuốc BVTV, vi sinh vật gây hại, điều không thể thực hiện được trong thực tế do tốn kém kinh phí, mất thời gian, không phù hợp với sản phẩm tươi sống; chúng ta ban hành QCKT, GAP, tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ với các hành động đúng mà nông dân phải tuân thủ trong quá trình SX, sơ chế để sản phẩm an toàn.
4. Nội dung và biện pháp chỉ đạo áp dụng GAP
Chỉ thị khẳng định mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng áp dụng GAP trong SX trồng trọt là tất yếu, vì ATTP trước mắt cũng như lâu dài là đòi hỏi của thị trường, của người tiêu dùng. Chỉ thị đã nêu rõ một số nội dung và biện pháp cần triển khai trong giai đoạn hiện nay là:
a) Cần tuyên truyền, tập huấn để cán bộ quản lý, người SX hiểu biết về Luật ATTP, về quy chuẩn kỹ thuật, GAP, nông nghiệp hữu cơ để từ đó lựa chọn cách tiếp cận phù hợp với từng địa phương, cũng như với quy định quản lý và yêu cầu của thị trường;
b) Các địa phương cần khẩn trương rà soát, phê duyệt quy hoạch các vùng SX hàng hoá tập trung đủ điều kiện SX an toàn, phù hợp với chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp và gắn với xây dựng cánh đồng mẫu lớn;
c) Các đơn vị thuộc Bộ phối hợp với các đơn vị liên quan khẩn trương xây dựng, trình ban hành QCKT về điều kiện bảo đảm ATTP đối với cơ sở SX, sơ chế và đối với 1 số sản phẩm có nguy cơ cao theo hướng nông dân dễ áp dụng; ban hành Thông tư hướng dẫn Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg ngày 9/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ áp dụng GAP trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản để Quyết định quan trọng này sớm đi vào cuộc sống.
d) Các cấp, ngành, địa phương, DN đặc biệt quan tâm tiêu thụ sản phẩm an toàn bằng cách tổ chức SX, tiêu thụ sản phẩm an toàn theo hợp đồng thông qua phương thức đối tác công tư (PPP) hay cánh đồng mẫu lớn gắn kết nông dân, DN trong chuỗi giá trị của sản phẩm an toàn.
Trước mắt, có thể nghiên cứu quy định bắt buộc một số khu vực của thị trường (siêu thị, nhà hàng, khách sạn, bếp ăn tập thể, cửa hàng bán lẻ; tổ chức, cá nhân chế biến, xuất khẩu…) phải tiêu thụ sản phẩm an toàn, có nguồn gốc; tiến tới bắt buộc tất cả các đối tượng khác buôn bán, kinh doanh trên thị trường đều phải áp dụng.
Để có thị trường ổn định, người SX cần kiên trì, nhất quán thực hiện GAP, liên kết lại để có sản phẩm quy mô đủ lớn, đa dạng về chủng loại, phải công bố với cơ quan nhà nước và thị trường về việc đảm bảo ATTP, chủ động tìm kiếm thị trường bằng cách trực tiếp đưa sản phẩm tới khách hàng hoặc hợp đồng liên kết với hệ thống bán lẻ hoặc các nhà máy chế biến.
Tỷ lệ người tiêu dùng muốn mua sản phẩm an toàn chắc chắn ngày càng tăng lên cùng với đời sống nhân dân được cải thiện, vì vậy nếu các nhà bán lẻ liên kết một cách có trách nhiệm với người SX và chính quyền các cấp quan tâm hỗ trợ để vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, khi thị trường trong nước còn chưa minh bạch thì hệ thống bán lẻ các sản phẩm an toàn, có nguồn gốc chắc chắn sẽ từng bước phát triển bền vững.
e) Các cơ quan quản lý các cấp, nhất là ở địa phương cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, chỉ rõ cho người tiêu dùng những địa chỉ SXKD sản phẩm an toàn, có nguồn gốc và người làm không đúng, sản phẩm không rõ nguồn gốc, không bảo đảm an toàn để người tiêu dùng biết và lựa chọn.